Mơ thấy lái xe –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Giữa trán | Mắt | Mũi | Môi | Cằm |
Kunie
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 77 được xây dựng trên điển cố: Phụng bích quy Triệu hay đưa ngọc bích về Triệu.
Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Hiện giờ chẳng khác gì nói mơ trong mộng, đừng nên chờ đợi hư ảo. Nếu muốn kết quả tốt đẹp, cần phải nhờ quý nhân chỉ bảo và tương trợ.
Thử quái mộng trung đắc bảo chi tượng. Phàm sự hư đa thiểu thực dã.
Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu có được một viên ngọc bích, gọi là Hòa thị bích. Vua nước Tần biết được, cậy nước mình có thế lực lớn mạnh, liền viết một bức thư, sai người gửi cho vua Triệu, nói rằng vua Tần muốn dùng mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viên ngọc Hòa thị bích.
Vua Triệu đọc thư xong, liền cùng các đại thần bàn bạc. Các đại thần cũng không nghĩ ra biện pháp gì hay. Đang trong lúc khẩn trương, bỗng một người tiến lên nói rằng, có người giỏi mưu tính tên là Lạn Tương Như (329 tr. CN – 259 tr. CN), rất thông minh dũng cảm. Vua Triệu sai người truyền gọi Lạn Tương Như vào gặp, hỏi anh ta nên xử lý sự việc này như thế nào. Lạn Tương Như nói: “Thưa đại vương, xin hãy cho tôi mang viên ngọc Hòa thị bích đi gặp vua Tần. Đến đó tôi sẽ tùy cơ hành sự, nếu như không chắc chắn vua Tần sẽ dùng mười lăm tòa thành trì để hoán đổi, tôi nhất định sẽ mang viên ngọc Hòa thị bích trở về một cách vẹn toàn”. Vua Triệu thấy Lạn Tương Như là người dũng cảm lại thông minh, liền đồng ý.
Lạn Tương Như đến nước Tần, vua Tần tiếp đón Tương Như ờ trong cung. Lạn Tương Như hai tay nâng viên ngọc Hòa thị bích dâng lên vua Tần. Vua Tần xem đi xem lại, vô cùng thích thú. Vua Tần xem xong, lại truyền cho các đại thần từng người một xem, sau đó lại truyền cho các phi tần ở hậu cung xem.
Lạn Tương Như đứng ở bên cạnh chờ đợi rất lâu, cũng không thấy vua Tần đề cập đến chuyện cắt mười lăm tòa thành trì để trao đối, biết rằng vua Tần vốn không có thành ý dùng thành trì để đổi lấy viên ngọc quý. Nhưng ngọc quý đã vào tay vua Tần rồi, làm thế nào để lấy lại được đây? Tương Như tiến lên, nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này thoạt nhìn tuy rất đẹp, nhưng vẫn có một khiếm khuyết nhỏ, xin để tôi chỉ cho đại vương xem!” Vua Tần vừa nghe thấy có khiếm khuyết, vội sai người đem viên ngọc từ hậu cung đến giao cho Lạn Tương Như.
Lạn Tương Như cầm viên ngọc Hòa thị bích, lùi lại mấy bước, tựa người vào cây cột, giận dữ nói với vua Tần rằng: “Khi trước đại vương sai người gửi thư cho vua Triệu, nói rằng sẽ đem mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viêh ngọc Hòa thị bích. Các đại thần nước Triệu đều nói rằng, không nên tin lời dối trá của người nước Tần. Tôi đã phản bác rằng, đến thường dân còn coi trọng tín nghĩa, huống chi lại là đại vương của nước Tần! Vua Triệu nghe lời của tôi, mới sai tôi đem viên ngọc Hòa thị bích đến đây. Thế mà đại vương nhận lấy ngọc quý, tùy tiện giao cho kẻ dưới xem, lại không hề đề cập đến chuyện trao đổi mười lăm tòa thành trì. Có thể thấy rằng đại vương quả không có thực tâm muốn dùng thành trì để đối lấy ngọc quý. Nay ngọc đã ở trong tay tôi, nếu như đại vương nhất định muốn ép buộc, tôi sẽ đập viên ngọc lên cây cột này cho vỡ tan!” Nói xong, Lạn Tương Như nâng cao viên ngọc Hòa thị bích, ra vẻ như định đập vào cây cột.
Vua Tần thấy vậy, vội nói: “Đại phu chớ có nóng vội, lời ta đã nói sao có thế không giữ được!” Nói rồi sai người mang bức địa đò đến, giả bộ chỉ vào bức địa đò nói: “Từ đây đến đây, tống cộng mười lăm tòa thành, đều cắt cho nước Triệu!” Lạn Tương Như nghĩ thầm: “Vua Tần thường hay giở trò lừa bịp, chớ có mắc lừa ông ta lần nữa!” Bèn nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này là vật báu nổi tiếng trong thiên hạ, khi tôi mang nó đến nước Tần, vua Triệu đã phải trai giới năm ngày, lại tổ chức nghi thức tiễn đưa báu vật rất long trọng ờ triều đình. Nay đại vương muốn nhận viên ngọc quý này, cũng nên trai giới năm ngày, và tổ chức nghi thức nhận báu vật ở triều đình, tôi mới có thể dâng ngọc quý lên được! “Vua Tần nói: “Được! Ta sẽ làm theo như vậy!”
Lạn Tương Như mang viên ngọc đó đến công quán, cho một thuộc hạ cải trang thành người buôn bán, giấu viên ngọc ở trong người, lặng lẽ theo con đường nhỏ trở về nước Triệu. Cuối cùng ngọc bích đã trở về nước Triệu, vua Tần đành phải thả Lạn Tương Như về.
Văn Khấn trong tang lễ – Lễ Triệu lịch Điện Văn được dùng trong lễ Triệu tịch Điện văn là lễ cúng cơm trong 100 ngày
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
– Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
Hôm nay là ngày……tháng……….năm………..
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………
Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày lễ cúng cơm trong trăm ngày theo nghi lễ cổ truyền.
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển……………chân linh.
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Than ôi! Thương nhớ phụ thân, bỏ về cõi thọ
(hoặc Thương nhớ mẫu thân, bỏ về cõi thọ)
Gót thừa vân, nghĩ đã xa khơi;
Lòng ái nhật, nghĩ càng tủi hổ.
Lưng cơm bát nước, miếng trân cam, tỏ dạ kính thành;
Sớm rượu trưa trà, đạo thần hôn, giữ lòng ái mộ.
Ngậm ngùi, hồn phách biết về đâu;
Tưởng tượng bóng hình còn mãi đó.
Ôi! Thương ôi!
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Dù đã sẵn sàng hay còn chưa chuẩn bị, nhưng rồi một ngày kia, chúng ta cũng phải chia tay thế giới này. Sẽ chẳng còn ánh mặt trời chói chang chào đón, sẽ chẳng còn một ngày mới bắt đầu bằng giọt nắng trong vắt của buổi bình minh. Sẽ không còn nữa những ngày xuân hiền hòa, ấm áp. Tiền bạc, danh vọng, quyền lực,… tất cả với ta cuối cùng cũng sẽ trở thành vô nghĩa. Còn ý nghĩa chăng là những gì ta tạo ra đối với thế giới này.
Vậy điều gì là thật sự quan trọng lưu lại dấu ấn của ta trong cuộc sống?
Vậy thì, bạn ơi, hãy nhìn cuộc sống bằng ánh mắt yêu thương. Bởi vì chỉ có tình yêu thương mới đem lại những điều kỳ diệu cho cuộc sống.
Muội Hỉ - triều Hạ. Truyền thuyết kể rằng nàng là phi tử của thiên tử cuối cùng triều Hạ. Sau khi lấy vua Kiệt, hưởng thụ xa xỉ, suốt ngày chìm đắm trong ca múa khỏa thân, rượu thịt tràn lan. Tương truyền, nàng thích nghe tiếng “xé vải” nên vua Kiệt đã hạ lệnh hàng ngày phải tiến cung 100 súc vải lụa để xé mua vui, đổi lấy tiếng cười của nàng. Cũng vì hoàng đế mải mê chìm đắm trong tửu sắc, bỏ bê triều chính, nên muôn dân sống cảnh lầm than, ai oán thấu tận thanh thiên. Cuối cùng, vua Kiệt đã bị bộ lạc Thương tiêu diệt.
Đát Kỉ - triều Thương: Tương truyền nàng là một mỹ nhân bò cạp, là mối họa lớn về tội dâm dục lưu danh thiên cổ. Nghe nói nàng cũng không khác gì Muội Hỉ, đều là mỹ nhân đệ nhất thiên hạ. Khi vào cung được Trụ vương vô cùng sủng ái nên suốt ngày chỉ chìm đắm trong hưởng lạc mà quên mất giang sơn và cuối cùng thiên hạ bị diệt vong.
Bao Tự - triều Chu: được mệnh danh là mỹ nhân không biết cười. Thân thế nàng được miêu tả vô cùng thần kỳ trong “Đông Chu liệt quốc chí”, nhưng trên thực tế cũng chỉ là một tiểu mỹ nhân của bộ lạc “Bao” tiến cống cho Chu U Vương. Vì nàng ít cười nên Chu U Vương tìm mọi cách để đổi lấy tiếng cười của nàng, kể cả việc thường xuyên đốt cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Đến khi quân Khuyển Nhung đánh úp Cảo Kinh, U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng đã không ai tới. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.
Tây Thi thời Xuân Thu. Đứng ở một góc độ nào đó mà nói thì nàng chính là một “anh hùng” của nước Việt. Nhưng từ góc độ của nước Ngô thì nàng lại là “hồng nhan chi họa”. Nàng chính là con bài chủ chốt trong “mỹ nhân kế” nhằm mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm vui thú, hưởng lạc bên nàng, dần dần mất hết ý chí. Chính vì thế nước Ngô ngày càng suy yếu và đã bị nước Việt phục thù.
Lã Trĩ - triều Tây Hán: là Lã hậu của hoàng đế Lưu Bang, tuy không trực tiếp hay gián tiếp khiến nước nhà bị diệt vong nhưng khi tại thế bà ta ra sức ức hiếp Lưu tộc, tìm cách phục dựng Lã tộc nhà mình. Thời cổ đại rất coi trọng việc “gia tộc thống trị” vì thế việc làm của Lã hậu cũng là một điển hình về "gieo mầm tai họa" cho thiên hạ. Hơn nữa, thủ đoạn của Lã hậu vô cùng tàn độc, đối đãi vô cùng thậm tệ với tiểu thiếp của chồng. Tương truyền, khi Lưu Bang chết, bà ta đã cho cắt hết tay chân, móc mắt, cắt hai vành tai, cắt đầu lưỡi của Thích phu nhân.
Điêu Thuyền của Tam Quốc: Nàng cũng gần giống như Tây Thi, cũng là những vật hi sinh cho những mưu toan chính trị trong lịch sử Trung Quốc. Nàng đã dùng nhan sắc của mình mê hoặc và cuối cùng đã đập tan được liên minh hai cha con Đổng Trác và Lã Bố bằng việc kích động cho Lã Bố giết chết Đổng Trác.
Dương quý phi - triều Đường: Cùng với Điêu Thuyền và Tây Thi, nàng cũng là một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc. Lúc này Đường triều đang thinh vượng. Nhưng do Đường Huyền Tông vô cùng si mê và hết lòng chiều chuộng nàng mà bỏ bê triều chính. Ông ta cũng không tiếc ngân khố để hầu hạ mọi sở thích xa hoa của nàng. Kẻ hầu người hạ nàng lên đến hàng trăm. Các quan lại thì đút lót nàng để thăng quan tiến chức. Triều chính rối ren, thiên hạ loạn lạc, cuối cùng trên đường chạy loạn sang nước Thục để đổi lấy lòng ba quân Đường Huyền Tông phải đau xót ban cho nàng một dải lụa trắng, thắt cổ tự tử.
Giả Nam Phong - triều Tấn: theo ghi chép trong sử sách, Giả hậu là người vô cùng xấu xí. Dáng người nhỏ thó, sắc mặt xám đen, đuôi lông mày có nốt ruồi lớn. Nhan sắc đã xấu xí, tâm địa lại vô cùng ác độc. Tấn Huệ Đế là một ông vua có trí tuệ chậm phát triển, vì thế, bà ta đã lộng hành thao túng triều chính, khởi nguồn cho cuộc loạn bát vương kéo dài suốt 16 năm khiến nhà Tấn suy yếu trầm trọng và đi đến diệt vong.
Khách Thị - triều Minh. Bà vốn là vú nuôi của hoàng đế Minh Hy Tông Chu Do Hiệu. Đồng đảng với bà ta chính là Ngụy Trung Hiền một đại hoạn quan nổi tiếng trong lịch sử. Ngày nhỏ hoàng đế Minh Hy Tông vô cùng yêu quý và hợp với vú nuôi cho nên khi lên ngôi ông đã phong cho bà ta là Phụng thánh phu nhân. Ngụy Trung Hiền cũng được thơm lây nhờ được Khách thị nâng đỡ. Vốn mù chữ dốt nát lại cộng thêm tham lam độc ác, khi có cơ hội leo cao ông ta đã làm lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Chính vì thế mà vương triều nhà Minh dưới thời Minh Hy Tông đã suy tàn, kiệt quệ.
Từ Hy thái hậu: Không ai có thể phủ nhận sự sắc sảo và tham vọng của Từ Hy khi một tay thao túng triều chinh trong suốt 47 năm. Nhưng chính bởi sự ích kỷ của mình, bà ta đã khiến Trung Quốc tụt hậu khá xa so với Phương Tây. Nhiều nhà sử học Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả bà như một bạo chúa và chính là người phải chịu trách nhiệm chính cho sự sụp đổ của nhà Thanh.
![]() |
![]() |
![]() |
Phong thủy hình thế cổ đại rất coi trọng mối tương quan giữa "chủ" và "khách" trong 1 chỉnh thể không gian chung. Áp dụng quan điểm này vào việc bài trí sofa trong phòng khách, có thể coi sofa là chủ, bàn con uống trà là khách; sofa tương đối cao là núi, bàn trà tương đối thấp là sông nước. Sofa và bàn con uống trà bắt buộc phải kết hợp với nhau, nước non hữu tình mới phù hợp với quan điểm của phong thủy học.
![]() |
Sự hài hòa của bàn trà và sofa |
Dưới đây là 1 số nguyên tắc để chọn bàn con uống trà:
Độ cao cho bàn uống trà không nên quá gối người ngồi. Khoảng cách từ chiếc bàn con tới sofa bắt buộc phải đủ rộng. Trong trường hợp do diện tích phòng khách hạn chế khiến khoảng cách này không đủ rộng thì tốt nhất nên để bàn bên cạnh sofa. Nếu cự ly giữa bàn và sofa quá gần sẽ không thuận tiện cho người sử dụng.
![]() |
Bàn uống trà hình vuông được xem là lý tưởng |
Hình tròn cũng được coi là tốt. Tránh chọn những chiếc bàn có hình góc cạnh.
Nếu phòng khách có hình chữ nhật thì nên đặt bàn con ở 2 đầu sofa. 2 chiếc bàn con này giống như biểu tượng Thanh Long, Bạch Hổ bảo vệ 2 bên, đồng thời người ngồi trên sofa cũng cảm thấy thoải mái khi có chỗ thuận tay đặt cốc uống trà. Bố trí như vậy sẽ tận dụng được không gian và phù hợp với yêu cầu thiết kế.
Trên bàn con uống trà, ngoài việc đặt những bình hoa hay vật trang trí, còn có thể đặt điện thoại hoặc đèn trang trí vừa tiện lợi lại vừa có tính thực dụng cao.
(Theo Khai vận cho ngôi nhà theo phong thủy)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Người tuổi Tý khá keo kiệt, họ nổi tiếng về khoản tính toán chi li. Ngay cả nhu yếu phẩm thường ngày họ cũng rất tiết kiệm.
NO 1: Tuổi Tỵ
Làm bạn với người tuổi Tỵ rất tuyệt vời, họ nhiệt tình, vui vẻ, nhưng đó là lúc đôi bên đều không có vấn đề nào phát sinh. Khi chuyện tiền nong của bạn gặp trục trặc và muốn mượn tiền từ người tuổi Tỵ? Tốt nhất bạn đừng nghĩ đến chuyện đó, trước khi bạn kịp mở miệng thì họ đã nhìn thấu bạn rồi, và họ sẽ đi trước một bước đó là than vãn gần đây họ rất nghèo, muốn mượn tiền từ người tuổi Tỵ phải nói là rất khó đấy.
Theo tu vi, Người tuổi Tý khá keo kiệt, họ nổi tiếng về khoản tính toán chi li. Ngay cả nhu yếu phẩm thường ngày họ cũng rất tiết kiệm, trừ khi bạn là người mà họ yêu, còn không mượn tiền từ trong túi họ là chuyện không thể. Giả sử bạn là bạn bè của người tuổi Tý, đúng lúc bạn đang hết tiền, trừ khi bạn có mối quan hệ kết nghĩa hoặc đôi bên rất hợp nhau thì may ra họ mới cho bạn mượn, còn nếu không thì… đừng mơ.
NO 2: Tuổi Tý
Người tuổi Tý khá keo kiệt, họ nổi tiếng về khoản tính toán chi li. Ngay cả nhu yếu phẩm thường ngày họ cũng rất tiết kiệm, trừ khi bạn là người mà họ yêu, còn không mượn tiền từ trong túi họ là chuyện không thể. Giả sử bạn là bạn bè của người tuổi Tý, đúng lúc bạn đang hết tiền, trừ khi bạn có mối quan hệ kết nghĩa hoặc đôi bên rất hợp nhau thì may ra họ mới cho bạn mượn, còn nếu không thì… đừng mơ.
NO 3: Tuổi Dậu
Người tuổi Dậu không hề tiếc khi chi tiền, nhưng đó là đối với bản thân họ mà thôi. Họ sống rất xa hoa, ăn những món ngon và mua những món đồ xa xỉ, nhìn vào trông họ rất có tiền và chắc mượn cũng không khó – đó là do bạn nghĩ vậy thôi. Ngay khi bạn vừa mở miệng mượn tiền, họ sẽ đóng vai một kẻ nghèo khổ, tiền bạc đều đã mua cái nọ sắm cái kia, điều này quá rõ ràng là họ không hề muốn cho bạn mượn xu nào cả.
=> Theo dõi: Tử vi hàng ngày của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
![]() |
![]() |
Ai cũng mong có được phước đức, đi lễ chùa cũng xin được ban phước đức, nhưng cầu xin có được không, làm sao để có được phước dày, ta phải tìm hiểu được cội nguồn của mọi phước đức nằm ở đâu thì mới có được.
Vì thế, mong ước hạnh phúc của hàng Phật tử không phải là mơ uớc suông, tin tưởng mơ hồ, cầu xin ai đó ban phước mà phải tích lũy, xây dựng phước báo cho mình bằng cách tốt trong từng ngày, từng giờ.
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika:
Có bốn pháp này, này gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. Thế nào là bốn?
Mong rằng tài sản khởi lên cho ta đúng pháp; mong rằng tiếng tốt được đồn về ta, cùng với bà con; mong rằng ta được sống lâu, thọ mạng kéo dài; mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi đời này. Đây là bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó được ở đời.
Này gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp đưa đến chứng được những pháp ấy. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới, đầy đủ bố thí và đầy đủ trí tuệ.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Nghiệp công đức, phần Bốn nghiệp công đức [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.676)
Sống ở đời, ai cũng mong muốn được đầy đủ, sung túc và thịnh phát. Không những thế, họ còn mong ước được danh thơm, khỏe mạnh và sống lâu, xa hơn nữa là mong rằng sau khi từ giã cõi đời được sinh về thế giới an lành. Những hoài mong đó thật chính đáng, thiện lành nhưng khó được, bởi không mấy người có đủ phước báo tròn đầy.
Thường thì chúng ta được cái này lại mất cái kia, Tuy vậy, có cái để được cũng quý hóa lắm rồi, vì xung quanh ta có khá nhiều người chẳng còn gì để mất. Chính những thăng trầm vinh nhục trong đời, trải nghiệm về sự được mất có đó rồi không đó, khiến chúng ta nhận ra giá trị của phước đức. “Có tài mà cậy chi tài”, có nhiều thứ nhưng ai chắc rằng chúng là của ta mãi mãi? Chỉ có phước đức sâu dày, may ra mới đem lại bình an, hạnh phúc trong cuộc mưu sinh đầy biến động này.
Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã rút ra kinh nghiệm sống quý giá “Có phước, có đức mặc sức mà hưởng”. Phước đức ấy chính là sự tiếp nối tuệ giác của Thế Tôn, ứng dụng trong đời sống hằng ngày thông qua những biểu hiện thiết thực: có đầy đủ niềm tin, giới hạnh, bố thí và trí tuệ.
Niềm tin Tam bảo là cội nguồn của mọi phước đức. Phước đức từ từ niềm tin Tam bảo mà đến. Vì ba ngôi quý báu Phật Pháp Tăng là ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi nẻo lành. An trú vững chắc vào niềm tịnh tín Tam bảo thì tự khắc chúng ta sẽ thiết lập được đời sống đạo đức, lương thiện và hân hoan với thí xả, mở rộng lòng ra với mọi người. Biết sống với niềm tin, đạo đức và buông xả, sống cho mình và mọi người, sống với an vui hiện tại và tương lai, đó chính là tuệ giác.
Vì thế, mong ước hạnh phúc của hàng Phật tử không phải là mơ uớc suông, tin tưởng mơ hồ, cầu xin ai đó ban phước mà phải tích lũy, xây dựng phước báo cho mình bằng cách tốt trong từng ngày, từng giờ. Một khi phước báo đã đầy đủ thì mọi việc tùy duyên thành tựu như ý, an vui và hạnh phúc bền lâu.
Thích Quảng Tánh
![]() |
![]() |
![]() |
Cùng với tranh ảnh, đồng hồ cũng được xem là vật trang trí mang lại nét đẹp tinh tế cho ngôi nhà. Tuy nhiên, khi treo đồng hồ cũng cần lưu ý đến những điều được xem là “không nên” trong phong thủy để có được một tổ ấm hạnh phúc và bình an.
Theo quan niệm của Phong Thủy phương Đông, tất cả đồ vật có thể động thì đều có ảnh hưởng đến Phong Thủy trong nhà. Kim đồng hồ luôn di chuyển không ngừng, vì thế khi bài trí trong nhà cần lưu ý đến mấy điểm sau:
1. Có thể bài trí đồng hồ tại hướng Chu Tước, bởi vì hướng Chu Tước phía trước thuộc di động. Bên cạnh đó, bài trí và treo đồng hồ tại hướng Thanh Long. Theo phong thủy, hướng Thanh Long là hướng cát, vì thế bên trái của phòng có thể treo đồng hồ.
2. Không được treo hoặc bài trí hướng Bạch Hổ, bởi vì hướng này là hướng hung nên bên phải phòng không được treo đồng hồ.
3. Không được bài trí đồng hồ tại hướng Huyền Vũ, bởi vì hướng này là phía sau nên tĩnh không nên động.
4. Phía trên sofa không nên bài trí đồng hồ sẽ dễ gây áp lực về tâm lý cho người ngồi phía dưới.
5. Không nên chọn đồng hồ có góc nhọn hay những hình thù có nhiều sắc cạnh sẽ gây nhiều bất lợi và rối loạn luồng khí tốt khi di chuyển vào nhà.
6. Không nên để mặt đồng hồ quay vào trong nhà mà nên quay ra cửa và ban công. Đồng hồ thuộc động nên khi trong nhà vắng người vẫn có thể khiến căn phòng tràn đầy sức sống.
7. Không nên treo đồng hồ hướng vào những thứ giống hình dáng của nó hoặc hình Bát quái, bài trí như vậy sẽ khiến tinh thần của gia chủ dễ bị ức chế và bực bội.
8. Ở phòng ngủ, kỵ nhất là treo đồng hồ ở đầu giường hay vị trí đối diện với giường ngủ gây nên không khí ảm đạm, buồn bã.
![]() |
Hãng Coca Cola thành lập năm Kỷ Mùi (1919) |
Công ty Pepsi Cola được thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi) với tên gọi ban đầu là Lofte. Năm 1991, Pepsi Cola có số vốn là 17 tỷ 143 triệu USD, doanh thu đạt 17 tỷ 803 triệu USD, lãi ròng 1 tỷ 90 triệu USD. Năm 2004, doanh thu của Pepsi Cola đạt 29 tỷ 261 triệu USD, lãi ròng 4 tỷ 261 triệu USD.
Công ty cổ phần Siemens được thành lập năm 1847 (Đinh Mùi). Năm 1991, Siemens có số vốn là 37 tỷ 308 triệu USD, doanh thu đạt 6 tỷ 576 triệu USD, lãi ròng thu được là 896 tiệu USD. Năm 2005, Siemens đạt doanh thu đạt 75 tỷ 445 triệu EUR, lãi ròng đạt 2 tỷ 248 triệu EUR.
Công ty Coca Cola thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi), là công ty sản xuất đồ uống lớn nhất thế giới. Năm 1991, Coca Cola đạt doanh thu 4 tỷ 36 triệu USD, lãi ròng là 93 triệu USD. Năm 2004, Coca Cola đạt doanh thu 21 tỷ 962 triệu USD, lãi ròng đạt 4 tỷ 847 triệu USD.
Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp
![]() |
![]() |
![]() |
Thấy rõ sự thật quả báo nhưng khó chia sẻ cho người phàm vốn trí mỏng nghiệp dày, trừ một vài trường hợp có duyên lành. Điều đáng lưu tâm ở đây là sự “không nói” của Thế Tôn và nụ cười mỉm của Tôn giả Moggallàna.
Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Velvana. Bấy giời, Tôn giả Moggallàna trú ở Gijjhakùta (Linh Thứu), khi từ núi bước xuống liền mỉm cười. Các Tôn giả khác thấy vậy hỏi nguyên nhân, Moggallàna đáp:
Ở đây, này các Hiền giả, khi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một Sa di ni giữa hư không. Y của vị này bị cháy đỏ rực, đỏ ngọn. Bình bát, cái nịt, thân thể cũng bị cháy đỏ rực, đỏ ngọn. Vị ấy thốt lên những tiếng kêu đau đớn.
Xưa kia Ta cũng thấy vị Sa di ấy nhưng Ta không nói, bởi nếu có nói, các người khác cũng không tin.
Này các Tỷ kheo, vị Sa di ni ấy là một ác Sa di ni trong thời Bậc Chánh đẳng giác Kassapa thuyết pháp. Do ác nghiệp người đó thuần thục, sau khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, với quả báo còn lại, vị ấy cảm thọ một thân thể như vậy.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ II, chương 8, phẩm 2, phần Sa di ni [lược], VNCPHVN ấn hành 1993, tr.547)
Sẽ kinh hãi cho bất cứ ai khi nhìn thấy một chúng sanh du hành trong hư không với toàn thân bị lửa cháy, than khóc thảm thiết. Càng kinh hãi hơn khi chúng ta biết đó là một nữ tu Phật giáo, vị Sa di ni. Thế nhưng chuyện gì cũng có thể xảy ra, dù là người xuất gia nếu không chính niệm, làm ác thì bị đọa lạc cũng là chuyện thường.
Nhân quả vốn công bằng, không ai có thể trốn tránh được nhân quả, gieo gió gặp bão. Có điều, với tuệ giác của Thế Tôn và bật Thần thông đệ nhất Moggallàna cùng các Thánh giả A la hán thì thấy rõ nhân quả của chúng sinh (Thiên nhãn minh), còn chúng ta người phàm mắt thịt thì lại không. Đã không thấy nên nhiều khi chẳng tin hoặc tin thì cũng không kiên cố. Vì vậy mà người tu tuy nhiều nhưng giải thoát chứng đạo thì chẳng bao nhiêu, thậm chí một vài người còn bị đọa lạc.
Điều đáng lưu tâm ở đây là sự “không nói” của Thế Tôn và nụ cười mỉm của Tôn giả Moggallàna. Thấy rõ sự thật nhân quả nhưng khó chia sẻ cho người phàm vốn trí mỏng nghiệp dày, trừ một vài trường hợp có duyên lành. Nhân quả có ba thời, trong thời hiện tại hiện báo vẫn có người chưa tin huống chi như những thời tương lai sinh báo và quả báo.
Nhưng chắc chắn rằng làm ác sẽ bị ác báo. Vị Sa di ni tạo ác nghiệp trong thời Phật quá khứ mà đến thời Thế Tôn dư báo vẫn còn, làm quỷ Dạ xoa bị thiêu đốt, đói khát khổ sở, khóc than thảm thiết trong khi du hành giữa hư không. Sự kiện này cảnh tỉnh chúng ta luôn thận trọng với điều ác, dù nhỏ như tơ tóc. Quả báo ác sẽ theo người làm ác như bóng theo hình, như “bánh xe theo chân con vật kéo xe”, bất luận người đó là ai.
► Theo dõi: Tử vi hàng ngày, tử vi hàng tuần của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Hiện tượng: cửa nhà vệ sinh chính đối cầu thang đi xuống sẽ làm cho uế khí từ nhà vệ sinh xông thẳng xuống dưới, bay vào nơi dương trạch, ảnh hưởng đến sức khỏe và vận thế của người sống trong nhà.
Phương pháp hóa giải: Bạn hãy treo một tấm rèm vải ở cửa nhà vệ sinh và nởi ngưỡng cừa đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải. Nếu có quạt thông gió hoặc cửa sổ trong nhà vệ sinh thì bạn phải chú ý thường xuyên để nhà vệ sinh được thông gió cho uế khí bay ra ngoài, thì nhà vệ sinh luôn sạch sẽ, khô ráo.
► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
![]() |
Vấn đề nhân bản con người được các quốc gia có nền khoa học tiên tiến hiện nay xem xét nghiêm túc. Căn cứ vào khuyến cáo của nhiều nhà khoa học, một số chính phủ đã đưa vào luật các điều khoản chi tiết nghiêm cấm việc nhân bản con người. Đúng hay sai, chúng ta để các nhà làm luật, chính trị gia phân định. Ở đây, tôi xin đặt vấn đề như sau: Khả năng nhân bản con người là có thật, vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Vậy, nếu có những bản sao con người xuất hiện thì điều gì sẽ xảy ra cho loài người chúng ta ?
Chu Dịch cung cấp cho chúng ta hình thái Thuần Khôn. Hình thái mô tả tiến trình của sự SAO CHÉP. Hình thái ấy cho chúng ta những thông tin sau :
Hào 1 : Cẩn trọng ngay từ những bước đầu.
Hệ quả vật sao chép được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
Hào 2 : Đức của mình thẳng, vuông, lớn.
Những người thực hiện kỹ thuật nhân bản cho rằng họ chỉ đơn thuần vì mục đích khoa học. Vì thế, họ sẽ thực hiện kỹ thuật này trên con người.
Hào 3 : Ngậm chứa không lộ ra. Đi theo người trên.
Có sự bảo lãnh của tổ chức hoặc quốc gia thực hiện kỹ thuật nhân bản con người. Công việc tiến hành này hoàn toàn bí mật.
Hoà 4 : Như cái túi thắt miệng lại.
Bị cáo giác. Nhưng họ vẫn không từ bỏ ý định. Công việc vẫn tiến hành và được giữ bí mật ở mức độ cao nhất.
Hào 5 : Được cái xiêm màu vàng.
Họ nhân bản thành công. Sau nhiều lần điều chỉnh, con người nhân bản đã có được khả năng tồn tại gần giống với con người.
Hào 6 : Đánh nhau ở đồng nội. Đổ máu đen, máu vàng.
Con người nhân bản tranh đấu cho quyền được làm con người như chúng ta.
Hào 7 : Lâu dài. (6 hào âm biến sang 6 hào dương, Thuần Càn)
Những người nhân bản tăng thêm số lượng đến một thời điểm họ sẽ quay lại đòi làm chủ. Và họ sẽ tạo lập cho họ một thế giới riêng (Biến sang THUẦN CÀN. Khởi đầu cho một tiến trình mới)
Yếu tố xã hội, tôi sẽ không đề cập. Dưới góc nhìn lịch sử loài người, căn cứ vào các thông tin từ diễn trình trên, tôi ghi 3 nhận xét sau :
@ Thứ nhất: Kết quả của kỹ thuật nhân bản sẽ tạo ra những con người nhân bản hoàn hảo tương đối so với con người chúng ta. Vì thế, con người nhân bản vẫn có khả năng tiếp thu kỹ thuật ấy từ chính chúng ta. Hoặc họ có thể tự tạo ra kỹ thuật ấy, một khi thế giới của họ có đủ điều kiện và thời gian cho sự phát triển nền văn minh của riêng họ.
Như vậy, Chu Dịch xác nhận kỹ thuật nhân bản là khả năng có thật trong tương lai.
@ Thứ hai: Trong tương lai, kỹ thuật nhân bản vẫn có thể xảy ra vào những thời điểm, ở những không gian khác do con người, hoặc người nhân bản thực hiện. Vậy, chúng ta không thể đoan chắc rằng kỹ thuật này chưa từng được thực hiện trong quá khứ. Vì vậy, tôi đặt vấn đề như sau: Ngoài thuyết tiến sinh tự nhiên đã được nền khoa học hiện nay chấp nhận, vẫn tồn tại một thuyết khác mà chúng ta cần phải xem xét đến : Loài người chúng ta hiện nay là nhân bản của một giống loài “NGƯỜI” tương tự khác. Vì thế, câu hỏi tiếp theo được đặt ra : Chu Dịch nhìn nhận ra sao thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản ? _ Chu Dịch nhìn nhận sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản qua tiến trình từ quẻ thứ nhất Thuần Càn đến quẻ thứ 13 Thiên Hoả Đồng Nhân.
Như vậy, Chu Dịch khẳng định sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản.
@ Thứ ba : Chu Dịch xác định rằng: Ở thời gian đầu khi xuất hiện, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản không bằng con người. Nhưng với thời gian, người nhân bản sẽ tự hoàn thiện. Đến một thời điểm, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản sẽ tương tự như con người. Loài người chúng ta hiện nay, theo thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản, đã có khả năng thích ứng & tồn tại tương tự như loài “NGƯƠI” đã tạo ra chúng ta chưa ? Và nếu đi dần lên, chúng ta sẽ gặp 2 câu hỏi :
1. Liệu có “Đấng Tối Cao” của loài “Người” ?
2. Hoặc thuyết tiến sinh theo Nguồn Gốc Nhân Bản có dạng vòng tròn tuần hoàn khép kín. Tức là không có “Đấng Tối Cao” ?
Câu hỏi thứ hai, Chu Dịch không xác nhận tính hợp lý. Vũ trụ của Chu Dịch là vũ trụ tuần hoàn và mở. Như vậy, Chu Dịch cho rằng có sự tồn tại của Đấng Tối Cao của con người.
Đến đây, chúng ta sẽ gặp câu hỏi: Nếu có đấng tối cao của con người, vậy ai đã tạo ra đấng tối cao ấy ? Câu hỏi hóc hiểm này thường gặp với những nhà truyền giáo, nhưng với Chu Dịch thì rất dễ trả lời !
“Loài người chúng ta có đấng tối cao, số lượng đấng tối cao không dừng lại ở con số 1 khi căn cứ vào tuổi của vũ trụ. Số lượng đấng tối cao là nhiều, nhưng vấn đề ở đây liệu họ có còn tồn tại ? Nếu còn tồn tại thì họ có khả năng liên hệ với chúng ta ? Hoặc có khả năng đấng tối cao của loài người chúng ta đang suy vi ? Và chúng ta có thể đặt vấn đề ngược lại rằng: Một trong số Đấng tối cao loài người chúng ta đang ở trình độ phát triển rất cao, và họ khả dỉ có quyền năng lớn thật sự để có thể chi phối chúng ta ?”
Tóm lại, theo Chu Dịch: Đấng tối cao chỉ vào một nền văn minh cụ thể, không phải chỉ vào 1 con người duy nhất. Và loài người chúng ta hiện nay trong tương lai sẽ là đấng tối cao của loài người nhân bản. Đấng tối cao hiểu theo Chu Dịch _ Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp là như vậy.
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến, sau khi chào hỏi, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác không?
Thưa đại vương, nếu ai có thể nói là mình đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Đại vương, Ta đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác.
Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa môn, Bà la môn là giáo chủ, hội chủ, sư trưởng có tiếng tăm, có danh vọng, được quần chúng tôn sùng như các ngài Purana Kassapa, Nigantha Nàtaputta….Khi con hỏi các vị ấy “Có tự xem là đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác không?”, thì họ trả lời là không tự xem đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Vậy tại sao tôn giả Gotama trẻ tuổi, sinh sau đẻ muộn và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy?
Thưa Đại vương, có bốn loại tuổi trẻ không nên khinh thường, không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thế nào là bốn? Đó là vị vương tử trẻ tuổi, một con rắn trẻ tuổi, một ngọn lửa trẻ tuổi và một vị Tỷ kheo trẻ tuổi.
Thưa Đại vương, bốn loại trẻ tuổi này không nên khinh thường, không nên miệt thị vì chúng là trẻ.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 3, phẩm Thứ nhất, phần Tuổi trẻ, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.159)
Đứng về phương diện chín chắn và kinh nghiệm trong cuộc sống xưa nay xã hội vẫn dành cho người già một địa vị trang trọng. Tuy nhiên, về phương diện tài năng, nhất là những tài năng xuất chúng thì bất luận tuổi tác, bởi thiên tài vốn thiên bẫm, là phước báo riêng của mỗi người. Do vậy, chẳng có ai ngỡ ngàng trước chuyện tuổi tác của thiên tài cả.
Vì thế, với tuệ giác của Thế tôn, Ngài thấu rõ bản chất của bốn nhóm đối tượng đặc biệt, rất lợi hại, rất nguy hiểm dù cho còn trẻ tuổi, sự nghiệp mới manh nha. Một vị vương tử trẻ tuổi nhưng đã tiềm ẩn bên trong một đại đế quyền uy, đứng trên muôn dân, cai trị toàn thể thiên hạ. Một con rắn nhỏ nhưng là rắn độc thì phải tránh xa nến không muốn mất mạng. Một ngọn lửa nhỏ là khởi đầu của trận đại hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Vị Tỷ kheo trẻ tuổi nhưng với thiện căn nhiều đời, giới hạnh viên mãn đã ẩn tàng bên trong một bậc Đạo sư, một đấng giác ngộ.
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước.
Khuynh hướng của xã hội hiện nay là trẻ hóa, nhất là trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo là một chuyển biến tích cực, năng động, kích thích sự phấn đấu vươn lên để tự thể hiện mình của giới trẻ. Giáo hội cũng đang có những động thái trẻ hóa hàng ngũ lãnh đạo nhưng xem ra vẫn còn quá dè dặt. Giữa hai thế hệ già và trẻ bao giời cũng có những lợi thế và những hạn chế riêng. Tuy vậy, phải tin tưởng vào sức trẻ, dìu dắt và nâng đỡ đồng thời giao phó trách nhiệm cho lớp trẻ chính là thực hiện di huấn của Thế tôn. Thế nên, chúng ta không nên xem thường hay nghi ngờ thế hệ trẻ, một khi họ đã đầy đủ những tố chất của sự trưởng thành.
Từ thời nhà Hán đến nhà Thanh, trên thị trường nảy nở đến hàng trăm thuật thuyết. Quay vòng 60 năm Hoa giáp và 24 phương vị đã có la liệt hàng vạn tên hung tinh, cát tinh. Vua Khang Hy nhà Thanh (1662 - 1722) xét thấy tình trạng chọn ngày tốt xấu quá ư hỗn loạn, bèn triệu tập các học sĩ có tiếng trong nước thời đó, thống nhất biện luận về các loại Thần sát (hung tinh cát tinh) soạn thành lịch thư. Từ đó giao cho một số học giả dùng làm cứ liệu soạn lịch hàng năm, còn các loại tạp thuật nhảm nhí bị bãi bỏ. Vua Khang Hy lệnh cho nhóm học sĩ Lý Quang - Địa biên soạn cuốn Tính lịch khảo nguyên. Tiếp đến vua Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795) lệnh cho nhóm học sĩ Doãn I Lộc, Mai - Cốc - Thành, Hà - Quốc I Tông... biên soạn cuốn Hiệp kỷ biện phương thư, nhằm bổ sung cho Tinh lịch khảo nguyên được hoàn hảo hơn. Hiệp kỷ biện phương thư phê phán những tà thuyết lưu truyền trong xã hội đương thời, đồng thời đính chính lại những sai sót trong Lịch thư của Tòa Khâm Thiên giám.
Đến triều Đạo Quang nhà Thanh (1821 - 1849) ngang với triều Minh Mạng, Thiệu Trị nhà Nguyễn nước ta) có cuốn Trạch cát hội yếu do Diêu - Thừa - Dư soạn, toàn thư gồm 4 quyển, nội dung súc tích đầy đủ, bao hàm được những phần cơ bản của Hiệp kỷ biện phương thư. Có thể nói 3 quyển Tinh lịch khảo nguyên, Hiệp kỷ biện phương thư và Trạch cát hội yếu nói trên là tiền thân của Lịch vạn niên Trung Quốc.
Lịch vạn niên hình thành: Hiệp kỷ biện phương thư là cuốn Hoàng lịch thông thư hoàn hảo nhất, nhưng là một công trình quá đồ sộ, toàn thư gồm 36 tập, chỉ có thể dùng làm cơ sở để tòa Khâm Thiên giám biên soạn lịch hàng năm. Thời xưa, phương tiện thông tin đại chúng còn quá thô sơ, điều kiện ấn loát có nhiều khó khăn, Hoàng lịch ban hành với số lượng rất hạn chế, đến tay quần chúng nhân dân rất chậm, nhiều địa phương còn phải khắc in lại, nên lịch hàng năm dễ bị lỗi thời, chỉ dùng được một thời gian ngắn hoặc quá hạn phải bỏ đi. Đó là những nguyên cớ hình thành Lịch vạn niên (lịch dùng cho nhiều năm).
Lịch vạn niên phải rất súc tích, cô đọng và thông dụng, ở Trung Quốc Lịch vạn niên chỉ mới ra đời khoảng triều Đạo - Quang, Quang - Tự nhà Thanh (thế kỷ thứ XIX). Giới thiệu Hiệp kỷ biện phương thư Hoàng lịch triều Càn Long nhà Thanh (1736-1795) Tác giả: Doãn Lộc, Mai Cốc - Thành, Hà Quốc Tông, biên soạn theo lệnh chỉ của vua Càn 1 Long. Toàn thư có 36 quyển:
-Quyển 1 và 2 gọi là Bản nguyên; Nêu những kiến thức cơ bản về cách làm lịch gồm Hà đổ, Lạc thư, Tiên thiên bát quái của Phục Hy, hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương, học thuyết âm dương ngũ hành, can chi, thập nhị trực, 28 sao, 24 phương vị, 24 tiết khí và căn cứ lý luận của thuật chọn ngày giờ.
-Quyển 3 đến 8 gọi là Nghĩa lệ; Giới thiệu tên các sao, tính chất nguồn gốc, cương vị và quy luật vận hành của các sao gộp thành 4 loại Thần sát: Sao vận hành theo năm, tháng, ngày, giờ.
Sưu tầm
Sinh ngày Tý: Do Tý - Mão xung khắc nên người sinh ngày này thường ít gặp may mắn. Tuy nhiên, trong hôn nhân, nếu được sao Hồng Loan chiếu mệnh thì con cháu đông vui.
![]() |
(Hình minh họa) |
Sinh ngày Sửu: Mão theo ngũ hành thuộc Mộc khắc chế Sửu thuộc Thổ nên vận số người sinh ngày này thường không thuận lợi; có người phải chịu cảnh cô đơn.
Sinh ngày Dần: Người sinh ngày này phạm phải sao Quang Phù nên cần đặc biệt thận trong trong lời ăn tiếng nói, tránh điều đáng tiếc xảy ra.
Sinh ngày Mão: Nhờ sao Thiên Tướng chiếu mệnh người sinh ngày này vận số tốt, tài lộc dồi dào.
Sinh ngày Thìn: Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên mọi việc thông suốt.
Sinh ngày Tỵ: Sự nghiệp tuy thuận lợi nhưng bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên không đa phần phải sống xa quê hương.
Sinh ngày Ngọ: Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên nam giới sinh ngày được có được sự trợ giúp đắc lực của vợ. Tuy cuộc sống có lúc gặp bất trắc nhưng cũng không gây thiệt hại lớn.
Sinh ngày Mùi: Là người trí tuệ, sắc sảo, tinh thông nghệ thuật; thường bị tiểu nhân đố kỵ, hãm hại nên thường mang tâm trạng bất an.
Sinh ngày Thân: Đa phần là người có sức khỏe kém nhưng nhờ được sao tốt Nguyệt Đức chiếu mệnh nên bệnh tật đều sớm lành.
Sinh ngày Dậu: Do bị các sao xấu Địa Không, Thái Tuế, Phá Quân chiếu mệnh nên vận số không may mắn.
Sinh ngày Tuất: Nhờ sao Tử Vi chiếu mệnh nên vận số tốt đẹp.
Sinh ngày Hợi: Do bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên cuộc sống thường bất ổn nhưng vẫn có được sự thành công nhất định trong sự nghiệp.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
1. Tạo khoảng trống sau lưng an toàn
Một trong những yếu tố quyết định sự thành công trong sự nghiệp của bạn chính là tạo một chỗ ngồi an toàn, chắc chắn. Để tránh sự dòm ngó hay những tai nạn bất ngờ, bạn nên đặt chiếc ghế của mình gần hoặc dựa vào tường. Tránh để lưng quay về phía cửa sổ cũng như ngồi đối diện với cửa sổ. Bạn có thể đặt phía sau ghế ngồi những biểu tượng phù trợ cho sự nghiệp như tranh có hình rùa.
2. Tránh ngồi đối diện với bức tường lớn
Ngồi đối diện với bức tường lớn trước mặt là một trong những điểm xấu nhất trong phong thủy văn phòng. Khi đó, mọi cơ hội thăng tiến cũng như phát triển trong nghề nghiệp của bạn sẽ bị hạn chế. Nếu không thể thay đổi chỗ ngồi, bạn có thể treo trước mặt bức tranh phong cảnh rộng lớn hoặc treo hình phượng hoàng đang tung cánh để tạo cảm hứng công việc.
![]() |
Bàn làm việc nên có vách ngăn |
3. Đặt tượng gà trống trên bàn làm việc
Trong phong thủy, biểu tượng gà trống được sử dụng để thu hút may mắn, thúc đẩy sự nghiệp, ngăn cản năng lượng xấu và hóa giải xung đột, mâu thuẫn. Nếu thường xuyên gặp phải sự ganh ghét nơi công sở, bạn hãy đặt bức tượng gà trống bằng đồng hoặc sứ trên bàn làm việc hoặc đeo một chiếc vòng mã não.
4. Dùng cầu pha lê để hút xung khí
Cầu pha lê có tác dụng vô hiệu hóa những âm khí và xung khí trong văn phòng, vì thế bạn có thể sử dụng món đồ này với mọi kích thước đặt trên bàn làm việc. Những tinh thể trong suốt này có thể giúp bạn đảm bảo sự hài hòa và cân bằng năng lượng của căn phòng, đồng thời tăng hiệu suất làm việc, giảm căng thẳng.
5. Tránh kê bàn đối diện với bàn khác
Việc phải đối diện liên tục với đồng nghiệp ở một vị trí cố định sẽ khiến bạn cảm thấy bị áp lực, và không có tinh thần thoải mái, làm mất năng suất công việc. Nếu không thể thay đổi vị trí đối diện, bạn có thể bố trí đặt một chậu cây cảnh đủ lớn để hạn chế việc đối diện hay dựng vách ngăn nhỏ giữa các bàn làm việc.
6. Chọn ghế ngồi hợp lý
Ghế ngồi nơi công sở đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo tư thế và tâm thái thoải mái để làm việc. Vì phải gắn liền với chiếc ghế trong một khoảng thời gian dài (trên 8 giờ đồng hồ), bạn hãy chọn cho mình chiếc ghế có nệm êm, tựa lưng và cổ thoải mái và có thể xoay theo nhiều hướng. Trong khi đó, đối với ghế dùng để tiếp khách, hãy chọn loại ít thoải mái để thời gian tiếp không quá dài, không ảnh hưởng đến quỹ thời gian của bạn.
7. Không ngồi quá gần cửa ra vào
Ngồi quá gần cửa ra vào dễ gây ra những sự cố bất ngờ, nguy hiểm. Hãy cố gắng chọn cho mình vị trí có thể quan sát cánh cửa và hoạt động ra vào của mọi người để giúp bạn tránh khỏi những tình huống không được chuẩn bị trước.
8. Đảm bảo ánh sáng hợp lý
Một văn phòng được thiết kế tốt là nơi có ánh sáng hài hòa, đầy đủ. Cửa sổ có khung cảnh đẹp bên ngoài là lựa chọn tốt nhất. Thêm vào đó, hãy bố trí rèm cửa để lượng sáng bên ngoài không quá chói, tránh dư thừa năng lượng dương trong phòng. Đối với những văn phòng xây dựng dưới tầng hầm, nên sử dụng hệ thống chiếu sáng giống ánh sáng tự nhiên, trong đó, ánh sáng trắng là lựa chọn tuyệt vời. Ánh sáng màu vàng sẽ làm chậm hiệu suất công việc.
9. Ngồi đối diện với nguồn sinh khí
Hướng tốt nhất để đảm bảo sự nghiệp, kinh doanh thành công cũng như danh tiếng, địa vị và giàu sang là ngồi đối diện với hướng có sinh khí của mình theo tuổi, mệnh. Hãy hỏi ý kiến của các chuyên gia phong thủy, dùng bản đồ bát quái để tìm hiểu hướng sinh khí của bản thân.